Dị vật ở thực quản và biến chứng khó lường
Do tập quán của nước ta là ăn uống chặt các loại xương lẫn thịt thành mảnh; do ăn vội vàng, vừa ăn vừa nói chuyện, trẻ em quen ngậm đồ chơi trong mồm rồi vô tình nuốt. Ở người già không có răng nên nhai không kỹ, cố nuốt hoặc do thực quản co thắt bất thường, thực quản có khối u làm cho thức ăn đáng lẽ xuống được mà mắc lại ở nơi hẹp. Trên lâm sàng thường gặp dị vật mắc ở đoạn thực quản cổ (chiếm 80%), 12% ở thực quản ngực và 8% dị vật ở cơ hoành và tâm vị.
Biểu hiện khi bị dị vật thực quản
Rất ít khi gặp triệu chứng rầm rộ như dị vật quá to làm tắc đường ăn và đường thở làm bệnh nhân ho sặc sụa, khó thở dữ dội hoặc tử vong ngay. Thường sau khi dị vật mắc vào thực quản, bệnh nhân có cảm giác vướng, đau họng, cổ, sau xương ức. Nuốt thức ăn, nước bọt đều đau. Tùy tính chất của dị vật, tình trạng nhiễm khuẩn nặng hay nhẹ mà gây viêm tấy hoặc những biến chứng nặng.
Dị vật thực quản nổi rõ trên phim chụp Xquang.
Giai đoạn đầu: Bệnh nhân thấy nuốt đau, không ăn được gì phải bỏ dở bữa ăn. Một số trường hợp sai lầm khi hóc dị vật lại có động tác như cố khạc, thò tay vào móc họng, cố gắng ăn thêm miếng rau, miếng cơm hy vọng tống dị vật xuống. Rồi sau đó không nuốt cũng đau. Đau ngày càng tăng. Nếu dị vật ở thực quản sẽ đau ở sau xương ức, đau xiên ra sau lưng, lan lên bả vai... Khi có các biểu hiện trên, bệnh nhân cần đến ngay cơ sở y tế có chuyên khoa tai mũi họng để được soi thực quản lấy dị vật.
Giai đoạn viêm nhiễm: Dị vật cắm vào thành thực quản làm xây xát niêm mạc thực quản hoặc thủng thành thực quản, nếu dị vật là xương lẫn thịt thì nhiễm khuẩn càng mạnh. Sau 1-2 ngày các triệu chứng nuốt đau, đau cổ, đau ngực tăng dần, đến nỗi bệnh nhân không nuốt được, kể cả nước. Thường là niêm mạc thực quản, xung quanh thực quản bị viêm thì triệu chứng nặng dần và gây những biến chứng nguy hiểm.
Chẩn đoán phân biệt
Loạn cảm họng (hay gọi hóc xương giả): Bệnh nhân có cảm giác nuốt đau, nuốt vướng, không sốt, chụp phim không thấy hình ảnh dị vật, không thấy hình ảnh dày phần mềm trước cột sống cổ. Thường gặp trong viêm amidan mạn, viêm xoang sau...
Dị vật đã trôi đi: Sau khi xương đã trôi đi, để lại vết loét nên cảm thấy đau. Vết loét tự lành nhưng có khi nhiễm khuẩn tạo thành ổ viêm tấy hoặc áp-xe, chụp phim không thấy hình dị vật, có hình ảnh dày phần mềm trước cột sống cổ, ổ áp-xe.
Khối u thực quản: Cảm giác chủ yếu là nuốt vướng, nuốt nghẹn, không sốt, thể trạng gầy sút.
Biến chứng nguy hiểm có thể gặp
Viêm tấy quanh thực quản cổ: Dị vật chọc thủng thực quản cổ gây viêm nhiễm thành thực quản lan tỏa, viêm mô liên kết lỏng lẻo ở xung quanh thực quản. Bệnh nhân sốt cao, thể trạng nhiễm khuẩn rõ rệt, toàn thân suy sụp, đau cổ, không ăn uống gì được, chảy nhiều nước dãi, hơi thở hôi, cổ ngoẹo sang một bên, quay cổ khó khăn, một bên cổ, thường là bên trái) có khi da cổ đỏ, ấn vào vùng cổ bệnh nhân rất đau.
Gắp dị vật mắc ở thực quản trẻ em.
Xử trí: Cần lấy dị vật ra càng sớm càng tốt: Nội soi thực quản gắp dị vật và đồng thời hút mủ ổ viêm trong lòng thực quản. Chống nhiễm khuẩn bằng các loại kháng sinh. Theo dõi bệnh nhân, nếu ổ nhiễm khuẩn không giảm phải tiến hành mở dẫn lưu ổ áp-xe.
Viêm trung thất: Do dị vật chọc thủng ngay thành thực quản đoạn ngực gây viêm trung thất, có thể lan tỏa toàn bộ trung thất hoặc thường khu trú ở một phần trung thất gây nhiễm khuẩn, nhiễm độc. Bệnh nhân sốt cao, có khi không sốt mà nhiệt độ tụt xuống thấp hơn bình thường. Đau ngực, khó thở, mạch nhanh và yếu, huyết áp hạ, tràn khí dưới da vùng cổ và ngực. Chụp phim thấy trung thất giãn rộng.
Xử trí: Mở lồng ngực, có thể kết hợp lấy dị vật hoặc lấy dị vật qua nội soi (thực hiện tại khoa phẫu thuật lồng ngực). Mở thông dạ dày để nuôi dưỡng bệnh nhân.
Viêm màng phổi mủ: Dị vật có thể đâm xuyên qua thành thực quản, thủng màng phổi gây viêm mủ màng phổi. Bệnh nhân sốt cao, đau ngực khó thở,
Xử trí: Nội soi lấy bỏ dị vật, dẫn lưu mủ màng phổi, kháng sinh liều cao phối hợp.
Thủng mạch máu lớn (hiếm gặp): Do dị vật nhọn sắc, đâm thủng thành thực quản hoặc chọc trực tiếp vào mạch máu lớn hoặc quá trình viêm hoại tử lan đến mạch máu lớn. Thường xuất hiện sau khi hóc 3-4 ngày trở đi, hoặc xuất hiện ngay sau khi hoác. Dấu hiệu báo trước là khạc hoặc nôn ra ít máu đỏ tươi hoặc đột nhiên chảy máu khủng khiếp, bệnh nhân ộc máu ra. Nếu dự đoán trước, cấp cứu kịp thời, hồi sức tốt thì may ra có thể cứu sống được.
Xử trí: Phải mổ thắt động mạch cảnh, điều trị ổ viêm do dị vật. Thủng động mạch chủ: phẫu thuật lồng ngực khâu lỗ thủng động mạch (ít kết quả).
Lời khuyên thầy thuốc
Để phòng ngừa dị vật thực quản, mọi người không nên ăn uống vội vàng. Không nói chuyện và cười đùa trong khi ăn, không nên uống rượu say nhắm đồ ăn có lẫn xương. Đối với trẻ em và người già, cần loại bỏ xương trước khi ăn. Khi bị hóc không nên chữa mẹo. Khi phát hiện dị vật, cần đến ngay chuyên khoa tai mũi họng để được soi gắp kịp thời, tránh các biến chứng.
BS. Hoàng Văn Thái